Mỗi độ tháng 4 về, trong khi nhân dân cả nước ta đang háo hức chào đón kỷ niệm 46 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, thì ngược lại, bọn phản động trong và ngoài nước lại tiếp tục diễn lại trò hề, tung hô, ca tụng những kẻ cầm đầu trong chế độ tay sai, bù nhìn cho Mỹ, trong số đó, Ngô Đình Diệm được chúng tung hô nhiều nhất.
Chẳng hạn, trên trang facebook của tổ chức khủng bố Việt Tân, đám kền kền này đã dùng những lời có cánh để ca ngợi Ngô Đình Diệm với tít cực mạnh: “NGÔ ĐÌNH DIỆM, VỊ TỔNG THỐNG ĐỨC ĐỘ, BÌNH DỊ, ĐÁNG KÍNH NỂ”.
Vậy quả thực ông ta đức độ, đáng nể đến
cỡ nào!?
Không muốn nhắc lại chuyện cũ, nhưng
cây muốn lặng nhưng gió chẳng đừng. Vậy nên xin điểm mấy lát cắt về NGÔ TỔNG THỐNG
một thời để bàn dân thiên hạ rõ thêm.
Năm 1954, Ngô
Đình Diệm được Mỹ đưa về miền Nam làm Thủ tướng của Quốc trưởng Bảo Đại. Một năm
sau đó, Diệm làm cái gọi là “trưng cầu dân ý” để phế truất Bảo Đại và lập nên
Việt Nam Cộng hòa. Ngày 26-10-1955 trở thành “ngày Quốc khánh” của chế độ Diệm.
Trong bộ Miền Nam giữ vững Thành Đồng, GS. Trần Văn Giàu khẳng định: “Trên đường
thiết lập nền độc tài cá nhân của nó, từ năm 1955 đến năm 1956, Ngô Đình Diệm
chẳng những ra sức tiêu diệt các đảng phái và giáo phái đối lập, mà lại còn
song song ra sức tạo cho chính quyền độc tài cá nhân đó một cơ sở pháp lý, một
bề ngoài dân chủ”.
Thực tế cho thấy,
đô la, vũ khí, cố vấn Mỹ tung vào miền Nam là yếu tố nền tảng cho việc xây dựng
và củng cố chính quyền của Ngô Đình Diệm. Đó chính là nguồn sống của chính quyền
Diệm, không có những nguồn sống ấy, thì chính quyền này không thể đứng được.
Báo cáo tại kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa II, ngày 12-4-1961, Thủ tướng Phạm Văn
Đồng khẳng định: “Chế độ Ngô Đình Diệm là con đẻ của đế quốc Mỹ, tội ác của gia
đình họ Ngô là tội ác của đế quốc Mỹ. Nhân dân ta ở miền Nam chống Ngô Đình Diệm
tức là chống đế quốc Mỹ…”.
Rõ ràng, cái
được gọi là nền “đệ nhất cộng hòa”, một chính thể tự cho là tự do, dân chủ, độc
lập…, thực chất là một thứ tầm gửi.
Trong những hoạt
động nhằm củng cố quyền lực của mình, Ngô Đình Diệm, được sự hậu thuẫn mạnh mẽ
của quan thầy Mỹ, đã có nhiều thủ đoạn tàn bạo. Đó là loại trừ tham mưu trưởng
thân Pháp Nguyễn Văn Hinh (và thay bằng Lê Văn Tỵ); trấn áp các giáo phái và thế
lực đối lập, như tiêu diệt Đại Việt ở Quảng Trị, Phú Yên; tiêu diệt Quốc dân đảng
ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kontum…; đánh bại Cao Đài, Hòa Hảo,
Bình Xuyên…
Cùng với đó, trong
thời gian 300 ngày, chế độ Diệm đã thi hành ngay chính sách trả thù những người
kháng chiến với những thủ đoạn hết sức tàn độc đó là:
Thứ nhất, phân
loại công dân và phân biệt đối xử. Chúng phân thành 3 loại: loại A (công dân bất
hợp pháp, là những người yêu nước, yêu hòa bình, ủng hộ Hiệp định Genève, từng
tham gia kháng chiến), loại B (công dân bán hợp pháp, gồm họ hàng, bạn bè của
loại A và họ hàng, bạn bè những người đi tập kết ra Bắc), loại C (công dân hợp
pháp, gồm những người còn lại). Đường lối của Diệm là dựa vào loại A đánh vào
loại C, làm cho loại B khiếp sợ và khuất phục.
Thứ hai, đàn
áp các cuộc biểu tình chống áp bức và đòi thi hành đúng các điều khoản của Hiệp
định Genève. Chẳng hạn, vụ Mỏ Cày (Bến Tre, tháng 9-1954), vụ Cây Cốc (Quảng
Nam, tháng 9-1954), vụ Trà Ôn (Vĩnh Long, tháng 10-1954)…
Thứ ba, tổ chức
khủng bố những người từng tham gia kháng chiến. Một số vụ tàn sát điển hình,
như vụ triệt hạ Hướng Điền (Quảng Trị, tháng 7-1955, giết hại 3 lần với tổng cộng
91 người, trong đó có 15 phụ nữ và trẻ em gái bị hãm hiếp), vụ Đại Lộc (Quảng
Nam, cuối năm 1957, bắt và giết hại 5.000 người)… Diệm cũng cho xây dựng hệ thống
nhà tù và trại tập trung dày đặc. Nhà tù cỡ lớn giam từ ngàn người trở lên thì
lúc này miền Nam có khoảng 100 cái, như Chí Hòa (chứa 4.000 người), Phú Lợi
(6.000 người), Biên Hòa (3.000 người), Thủ Đức chứa (2.000 người)…
Về quãng thời
gian khó khăn này, Đại tướng Văn Tiến Dũng nhận xét: “Trong 5 năm đấu tranh
chính trị gay go và quyết liệt, đồng bào miền Nam đã chịu đựng nhiều đau thương
và tổn thất, hàng ngàn xóm làng bị địch đốt phá, hàng chục vạn cán bộ, đảng
viên bị giam cầm, tra tấn và bắn giết”. Tài liệu của Đại tướng dẫn lại cho biết,
tính đến cuối năm 1957, lực lượng của Đảng ở các tỉnh đồng bằng khu 5 bị tổn thất
nặng nề: 70% đảng ủy viên xã, 60% huyện ủy viên, 40% tỉnh ủy viên bị bắt và bị
giết. Tỉnh có phong trào khá nhất, chỉ còn 10 chi bộ, mỗi chi bộ 3 đảng viên, tỉnh
yếu còn 2, 3 chi bộ, 12 huyện đồng bằng mất hết cơ sở đảng.
Tại Nam bộ, tính chung từ tháng 7-1955 đến tháng 2-1956,
chúng đã giết hại, giam cầm 93.362 cán bộ, đảng viên. Từ năm 1955 đến 1958,
chúng giết hại khoảng 68.000 cán bộ, đảng viên, bắt giam 446.000 người. Chưa hết,
tháng 12-1958, chúng đầu độc hàng nghìn tù chính trị tại trại giam Phú Lợi.
Tháng 4-1959, Diệm tuyên bố “đặt miền Nam trong tình trạng khẩn cấp”. Luật 10/59 được ra đời với tiêu chí "giết nhầm còn hơn bỏ
sót”, chúng lê máy chém đi khắp miền Nam tàn sát đồng bào ta. Biến cả miền Nam
thành nhà tù lớn; với những cách tra tấn, cực hình từ dã man thời trung cổ đến tinh
vi hiện đại, tàn ác nhất chưa từng có ở một nhà tù nào trên thế giới.
Trên đây mới chỉ điểm qua vài nét về
NGÔ ĐÌNH DIỆM, nhưng có thể kết luận ngay rằng: NGÔ ĐÌNH DIỆM là một tên bạo chúa
ác độc nhất trong lịch sử nhân loại. Việt Tân và đồng đẳng có cố lu loa che lấp
tội tày trời của DIỆM cũng sẽ chẳng ích gì. Đó chỉ là trò hề ngớ ngẩn. Hãy dừng
ngay còn kịp.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét