Quân đội Đại Việt là
một quân đội mạnh, từng đánh thắng những đội quân xâm lược hùng mạnh của nhà
Tống, đế quốc Nguyên Mông, đánh đuổi quân Minh, bình định Chiêm Thành… Để có
được quân đội mạnh như vậy, tất nhiên phải chú trọng vào việc luyện tập, từ
luyện sức khỏe, võ nghệ đến trận đồ.
Thời Lê Thái Tổ, năm
Thuận Thiên thứ 2, nhà vua cho quân các vệ ở 5 đạo diễn tập cả thủy chiến và
lục chiến. Về phép tập trận, vua Lê Thánh Tông từng dụ quần thần rằng: “Tổng
quản, Tổng tri được phép dựa vào trận đồ, điều chỉnh dốc sức chia thành từng đội,
từng ngũ, dạy chúng biết phép ngồi đứng tiến lui, nghe rõ tiếng hiệu lệnh về
chiêng trống, làm cho quân sĩ tập quen việc bắn cung tên, không quên việc vũ
bị, đến ngày thứ tư trở đi mới được sai phái".
Theo chế độ thời nhà
Lê, hàng năm cứ đầu mùa xuân, các quân ở 5 đạo đều hội họp ở kinh sư để kiểm
điểm tập dượt. “Đại Việt sử ký toàn thư” chép lại tên các phép luyện thủy trận
thời Lê Thánh Tông như: trung hư, thường sơn, xà mãn, thiên tinh, nhạn hàng, liên
châu, ngư đội, tam tài, thất môn và yển nguyệt; bộ trận có các phép: trương cơ,
tương kích và kỳ binh... “Toàn thư” cho biết vua Lê Thánh Tông từng cho quân sĩ
tập trận ở Thiên Trường, tập trận Trung hư ở Lỗ Giang, tập trận Tam tài và Thất
môn ở Vi Giang.
Về thủy quân, thời Lê
quân sĩ luyện tập ở hồ Lục Thủy (hồ Hoàn Kiếm ngày nay), nên hồ còn gọi là hồ
Thủy Quân, hoặc dàn thuyền tập trận ở sông Hồng. Thời vua Lê Thánh Tông, nhà
vua còn cho đào hồ Hải Trì và dựng điện Giảng Võ cạnh hồ để luyện quân.
Thời Lê trung hưng, bên
cạnh việc tập trận còn được tổ chức thi cử. Theo sách “Binh chế chí” trong bộ
“Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú, cứ 3 năm một kỳ, vào mùa
đông các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì Bộ Binh tổ chức thi Bác cử. Các phép tiến
lên đứng lại, phép đặt doanh bày trận, đều theo lệnh trong nội truyền ra. Mùa
xuân các năm Dần, Thân, Tị, Hợi, sau khi tế cờ xong thì thi bộ binh ngoài bãi
sông Hồng. Phàm phép tiến lên đứng lại, phép đặt doanh ngoài trận, đều có theo
lệ hoặc có thêm bớt, cũng theo lệnh trong nội. Theo bộ sách này thì các vệ, đội
nếu thực hành tốt thì được thưởng, hạng bình thường chỉ được phát tiền cơm. Các
đội ngũ xếp hạng thấp nhất sẽ bị phạt tiền, thậm chí còn không phát tiền cơm
cho binh lính.
Về chuyện tập trận đồ
thời Nguyễn, bộ sử “Đại Nam thực lục” cho biết, năm Minh Mạng thứ 20 (1839),
mùa thu, tháng 9, nhà vua cho diễn tập trận thuỷ chiến ở sông Thanh Phước (một
nhánh của sông Bồ ở Quảng Điền, Thừa Thiên – Huế ngày nay). Vua sai Đô thống là
Nguyễn Tăng Minh, Hiệp biện Đại học sĩ là Trương Đăng Quế đến tận nơi giám sát.
Khi trở về, các khâm sai báo lại rằng: các quân bơi chèo, lúc đi lúc ngừng, khá
coi được, mà diễn bắn điểu sang (súng điểu thương, hay còn gọi là hỏa mai) cũng
khá thạo. Vua nghe vậy, khen ngợi, đặc thưởng cho Thuỷ sư Đề đốc Hiệp lý trở
xuống đến biền binh tiền gạo lương có thứ bậc mỗi người một khác.
Trương Đăng Quế tuy
xuất thân là quan văn, nhưng từng được cử giữ chức Thượng thư bộ Binh. Do đó,
vua Minh Mạng từng đem trận đồ thuỷ chiến của phương Tây cho Trương Đăng Quế
xem và bảo rằng: “Phép thuỷ chiến, nếu giặc chiếm được đầu gió, tất nhiên thừa
thế đuổi đánh ta, thì thuyền ta giả cách thua, nhân đó buông dây, trở buồm dần
dần chạy gié ra, rồi sau súng ống của ta mới thừa sơ hở mà bắn đánh lại được.
Nếu ta chiếm được đầu gió, thì nên đuổi theo từ từ, đừng bức bách chúng vội
quá, thì chúng không đánh trả lại mình được. Những điều tương tự như vậy đều có
thể suy ra. Những lúc rỗi việc công, khanh nên xem kỹ bản đồ này, tham bác châm
chước để làm phép thao diễn thuỷ quân”. Nghe những lời này, có thể thấy rằng
vua Minh Mạng rất thông thạo về phép thủy chiến.
Sau khi vua Thiệu Trị
lên ngôi, vào tháng 2 năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), nhà vua ra Thăng Long làm lễ
bang giao với nhà Thanh, đã tập hợp biền binh 5 tỉnh lớn ở Bắc Kỳ để điểm
duyệt. Vua sai Hiệp biện Đại học sĩ Lê Đăng Doanh, Hành dinh đại thần Mai Công
Ngôn sung chức Tổng lý duyệt binh đại thần, trước kỳ duyệt binh, kiểm hạch về
quân chính.
Nhà vua dụ rằng: “Bang
giao là việc lớn, người nước xa đến quan chiêm. Chỉnh đốn quân sĩ, phô bày binh
uy, chính là lúc này. Trẫm sẽ một phen duyệt cả các quân để làm cho uy thế của
nước mạnh mẽ. Các ngươi đều nên kiểm soát, sắp đặt tâu lên cho kịp biết ngay”.
Về cái lợi của trận
ngựa, vua Thiệu Trị phân tích: “Quân kỵ có thể rời ra, tan ra, có thể tụ tập ở
xa nghìn lý mà về tới chỉ bằng 100 lý, ra vào được luôn luôn, cho nên gọi là
quân ly hợp. Khi xưa, kỵ sĩ chỉ có cung tên là môn sở trường nay thì có các
súng điểu sang, tiêu sang, gươm trường, súng ngựa, công đánh phá giặc hơn biết
chừng nào! Vả lại, người dùng binh giỏi không cần phải đánh, người đánh giỏi
không cần phải bày trận”.
Vua Thiệu Trị cũng là
người thông thạo sách võ kinh. Nhà vua giảng cho bọn Phạm Hữu Tâm, Mai Công
Ngôn về ba trận của nhà binh mà danh sĩ Viên Bán Thiên thời nhà Đường bên Trung
Quốc từng bàn, bao gồm: “Hành binh theo chính nghĩa như trận mưa quý hoá đổ
xuống, hợp với thiên trời, ấy là thiên trận; đủ lương ăn, ít tiêu phí, vừa làm
ruộng và chiến đấu hợp với địa nghi, ấy là địa trận; đem quân đi, quân sĩ như
con em đi theo cha anh, được sự nhân hoà, ấy là nhân trận; nếu bỏ những điều
đó, thì đánh thế nào được?”. Bọn Hữu Tâm, Công Ngôn nghe vua nói xong, cúi đầu
tạ xin chịu kém.
Khi vua hỏi: “Trận ngựa
với trận voi, đằng nào khó hơn?”; Phạm Hữu Tâm thưa rằng: “Trận ngựa khó hơn”.
Vua Thiệu Trị đồng ý, nói rằng: “Phải đấy! Trận voi chỉ là chiếu theo phép
luyện tập thường, còn trận ngựa thì quân kỵ bắn tên, cầm dao, xông pha vào
trận, nếu không quen thạo thì mình bị hại trước, còn giết giặc được sao? Thế
cho nên khó hơn. Nay đợi duyệt xong ban thưởng, sẽ lấy khó, dễ làm thứ bậc cốt
cho đúng mức công bằng để tỏ ra sự ban khen và khuyến khích"…
Đến năm Thiệu Trị thứ 3
(1843), vào tháng 5, vua Thiệu Trị rước Thái hậu ra giá chơi Vọng Hải lâu để
xem tập trận. Lần này thấy kỷ luật nghiêm minh, thuỷ trận hợp phép, vua sai
thưởng cho từ quan đại thần tổng duyệt đến quản vệ binh lính có thứ bậc khác
nhau. Vua nhân bảo bộ Công rằng:
“Ở biển đặt nhà chòi để
làm cho mạnh cái thế chỗ cương giới, tất phải sửa chữa thêm luôn”. Sau đó vua
lại dụ cho bộ Binh rằng: “Súng đại bác là thứ cốt yếu trong việc dùng binh, bắn
tin hay không, nên châm chước mà định thưởng phạt, để cho quân sĩ biết khuyên,
răn”.
Tháng Giêng năm 1845,
vua Thiệu Trị lại cho tiến hành duyệt binh trọng thể, có diễn tập trận voi,
trận ngựa và trận pháp thủy bộ. Vua nói rằng: “Quân lính có thể nghìn ngày
không dùng, không thể một ngày không tập luyện. Ngày nay, nước nhà nhàn rỗi,
các hạng biền binh hiện ở đội ngũ trong Kinh, phải nên để thì giờ mà diễn tập
cho tinh thục. Bộ binh thì chuẩn cho viên thống quản thao diễn ở giáo trường:
phép bắn, phép bày trận; thủy sư cũng do viên thống quản ấy chiếu lệ thao diễn
binh thuyền ở bờ phía Nam sông Hương, dạy cho bắn súng trường, súng đại bác, và
khi ngồi, khi dậy, khi đi, khi đứng để cho biết phép đánh bộ, đánh thủy, cốt
cho kỹ thuật và võ nghệ đều tinh để phòng khi cần dùng đến”.
Thường xuyên làm tốt công tác xây dựng các lực lượng thời bình tạo tiền đề xây dựng QD vững mạnh k10
Trả lờiXóa