Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954), đỉnh cao của Cuộc
tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 thể hiện bước phát triển cao nhất của
nghệ thuật quân sự hiện đại Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (1945-1954).
Trong đó, nghệ thuật tác chiến hiệp đồng binh chủng là một trong những điểm nổi bật, phát huy hiệu quả cao nhất trong chiến dịch, quyết chiến chiến lược cuối cùng.
Trước tình hình lực lượng địch ở Điện Biên Phủ ngày càng tập trung
đông (tổng quân số lúc đầu là hơn 11.870 tên, sau tăng lên 16.200 tên), có hỏa
lực mạnh (2 tiểu đoàn lựu pháo 105mm, 2 tiểu đoàn súng cối 120mm, 1 đại đội
trọng pháo 155mm, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội máy bay thường trực…), với hệ
thống công sự xây dựng kiên cố, được coi là “Một pháo đài không thể công phá”.
Trong khi đó, công tác tổ chức hiệp đồng chiến đấu giữa bộ binh với pháo binh
của ta chưa hoàn tất. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sau khi nghiên cứu kỹ
lưỡng đã bàn bạc, chấp thuận đề nghị của Bộ chỉ huy chiến dịch, chuyển từ
phương châm “Đánh nhanh, giải quyết nhanh”, sang “Đánh chắc, tiến
chắc”. Thực hiện phương châm mới, ta đã triển khai chiến dịch tiến công
hiệp đồng binh chủng, sử dụng lực lượng với quy mô lớn nhất gồm các Đại đoàn bộ
binh 308, 312, 316 (thiếu), 304 (thiếu), 1 đại đoàn công pháo (1 trung đoàn
pháo 75mm, 1 trung đoàn pháo 105mm, 1 trung đoàn công binh) và 1 trung đoàn
pháo cao xạ. Tổng số quân chủ lực của ta tham gia chiến dịch là hơn 40.000, nếu
tính cả tuyến hai thì quân số lên tới 55.000 người.
Xét tương quan lực lượng chủ lực, bộ binh ta hơn địch về số tiểu
đoàn (27/22), nhưng quân số mỗi tiểu đoàn ta chỉ bằng 2/3 địch; pháo binh ta
cũng hơn địch (64/48 khẩu), nhưng lại ít hơn địch về số lượng đạn. Địch chiếm
ưu thế tuyệt đối về xe tăng, máy bay và có hệ thống công sự được xây dựng rất
kiên cố. Song, vấn đề quan trọng trong chiến dịch này là, ta đã tổ chức và phát
huy cao nhất sức mạnh tác chiến hiệp đồng binh chủng hợp thành, mà chủ yếu là
giữa bộ binh, pháo binh và phòng không bắn phá chi viện, bảo vệ cho đội hình bộ
binh tiến công địch qua 3 đợt tác chiến: Trong đợt một, từ ngày 13 đến 17/3,
tác chiến hiệp đồng binh chủng giữa các lực lượng được thực hiện trong các trận
Him Lam, ưu thế binh lực (ta 4,5/địch 1); Độc Lập (ta 4,5/địch 1) và Bản Kéo
(ta 3/địch 1). Do ta tập trung tiến công tiêu diệt từng cụm cứ điểm, nhất là
cụm cứ điểm Him Lam, nên pháo binh có điều kiện thuận lợi chi viện cho bộ binh
tiến công trong từng trận đánh. Thắng lợi của đợt một chiến dịch chứng tỏ, ta
đã tổ chức hiệp đồng chiến đấu chặt chẽ giữa các lực lượng, dứt điểm từng cụm
cứ điểm, đập tan hệ thống phòng ngự vòng ngoài của địch trên hướng bắc và đông
bắc, mở thông cánh cửa, đưa binh hỏa lực tiến vào áp sát, bao vây khu
trung tâm tập đoàn cứ điểm địch.
Sang đợt hai, từ ngày 30/3 đến 30/4, ta tiếp tục phát huy sức mạnh
tác chiến hiệp đồng binh chủng trong nhiều trận đánh. Đáng chú ý là những trận
tác chiến hiệp đồng tiến công các cứ điểm phòng ngự then chốt ở phía đông (C1,
D1, E) để mở cửa thọc sâu vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Bên cạnh đó, tác
chiến hiệp đồng còn thể hiện trong bao vây, phong tỏa, hạn chế tiếp tế bằng
đường không của địch. Thực hiện chiến thuật này, pháo cao xạ ta được giao nhiệm
vụ tập trung bắn tiêu diệt máy bay địch, khiến chúng phải bay lên cao, không
thể thả dù tiếp tế lương thực, thực phẩm chính xác cho đồng bọn, nhiều hàng hóa
lạc sang đội hình của ta.
Đến đợt 3, từ ngày 1 đến 7/5, pháo các cỡ của ta, trong đó hỏa
tiễn H-6 lần đầu xuất trận bắn mãnh liệt, làm cụm pháo binh địch ở Hồng Cúm bị
tê liệt. Được chi viện hỏa lực, bộ binh ta đồng loạt tiến công, đánh chiếm các
cứ điểm còn lại ở phía đông (C1, C2, A1), diệt một số cứ điểm ở phía tây (311A,
311B, 310, 208), tạo thế uy hiếp sở chỉ huy tập đoàn cứ điểm địch. 15 giờ ngày
7-5, Bộ chỉ huy chiến dịch huy động toàn bộ lực lượng mở cuộc tổng công kích từ
các hướng vào sân bay Mường Thanh và sở chỉ huy, bắt tướng Đờ
Cát-xtơ-ri cùng ban tham mưu tập đoàn cứ điểm và số quân địch còn lại phải
đầu hàng.
Có thể khẳng định, Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đánh dấu bước
phát triển đỉnh cao của nghệ thuật quân sự hiện đại Việt Nam. Trong đó, tác
chiến hiệp đồng binh chủng được tổ chức và phát huy hết sức hiệu quả. Nghệ
thuật hiệp đồng được thể hiện nhuần nhuyễn giữa sự phối hợp tác chiến ở trình
độ cao của bộ binh, công binh với pháo binh (lựu pháo, sơn pháo, súng cối, hỏa
tiễn) và pháo cao xạ 37mm. Giữa các lực lượng tiến công tiêu diệt từng cứ điểm
với đánh địch phản kích bảo vệ mục tiêu đã chiếm, bảo vệ trận địa tiến công và
bao vây. Ngoài ra, còn thể hiện giữa các trận đánh tiêu diệt lớn với tác chiến
tiêu hao rộng rãi của các đơn vị được giao đánh lấn, bắn tỉa, đoạt dù tiếp tế
của địch và luồn sâu, đánh hiểm trong tung thâm, tiến tới tổng công kích. Dù
chiến thắng diễn ra 66 năm qua, song, những bài học kinh nghiệm rút ra từ chiến
dịch, nhất là về việc sử dụng nghệ thuật tác chiến hiệp đồng binh chủng vẫn còn
nguyên giá trị, cần được nghiên cứu, áp dụng hiệu quả vào thực tiễn sau này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét