Thượng tướng, Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Hoàng Minh Thảo (1921-2008) được biết đến là một vị tướng giỏi trận mạc, uyên thâm về lý luận quân sự, bậc thầy của nghệ thuật dụng binh. Trong cuộc đời binh nghiệp, ông từng đúc kết: “Mưu sinh ra kế, thế đẻ ra thời. Đánh bằng mưu kế, thắng bằng thời thế”.
Đại
tá khi mới 27 tuổi
Thượng
tướng Hoàng Minh Thảo (tên khai sinh là Tạ Thái An), sinh ngày 25-10-1921. Cha
ông là Tạ Quang Khai, mẹ là Nguyễn Thị Tành làm nghề thợ may tại xã Bảo Khê,
huyện Kim Động (nay xã Bảo Khê thuộc TP Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên). Cha ông do
tham gia phong trào yêu nước nên bị thực dân Pháp lùng bắt, vì vậy gia đình ông
đã rời bỏ quê hương lên sinh sống tại huyện Tràng Định (Lạng Sơn).
Năm
1937, Tạ Thái An được xếp vào danh sách cảm tình Đảng tại cơ sở Đảng ở Lạng Sơn
và tham gia Đoàn thanh niên dân chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lấy bí
danh hoạt động là Tạ Quang. Năm 1941, Tạ Quang tham gia Việt Minh, rồi được cử
đi học quân sự ở Liễu Châu, Trung Quốc. Khi ấy, Tạ Quang đã vinh dự được Bác Hồ
đặt cho tên mới là Hoàng Minh Thảo - cái tên như một tiên đoán về cuộc đời và
sứ mệnh của vị tướng tài ba xuất chúng trong quân đội này. Theo đó, họ Hoàng là
lấy tên của trường Hoàng Phố, đệm và tên là Minh Thảo, dành cho con người thông
minh, có tấm lòng tình nghĩa, thảo thơm.
Tháng
10-1945, khi mới 24 tuổi, Hoàng Minh Thảo đã được giao làm Khu trưởng Chiến khu
3, thay tướng Nguyễn Bình vào Nam làm Tư lệnh Nam Bộ. Năm 1948, Hoàng Minh Thảo
là đại tá trẻ nhất toàn quân được phong cấp hàm khi mới 27 tuổi. Từ Tư lệnh
Chiến khu 3, Hoàng Minh Thảo được cử vào Chiến khu 4 thay tướng Nguyễn Sơn. Năm
1950, Đại tá Hoàng Minh Thảo được cử làm Đại đoàn trưởng Đại đoàn 304 - đơn vị
bộ đội chủ lực chiến đấu vừa được thành lập. Cuộc đời binh nghiệp của Thượng
tướng Hoàng Minh Thảo là một bản anh hùng ca gắn liền với những chiến công vang
dội. Năm 1975, ông là Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên, đã giáng đòn điểm huyệt vào
quân lực Việt Nam cộng hòa, mở đầu cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mùa xuân
1975, tiếp nối là Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất đất nước (30-4-1975).
Bậc
thầy nghệ thuật dụng binh
Trong
một lần triệu tập Thượng tướng Hoàng Minh Thảo (lúc đó là Trung tướng) ra Hà
Nội tham khảo ý kiến, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nêu câu hỏi: “Nếu đánh Tây
Nguyên thì đánh ở đâu trước?”. Thượng tướng Hoàng Minh Thảo trả lời: “Đánh Tây
Nguyên thì đánh vào Buôn Ma Thuột trước. Vì Buôn Ma Thuột là thị xã lớn nhất,
là hậu cứ của địch, là nơi địch yếu. Buôn Ma Thuột là địa bàn chiến lược cơ
động, từ đây ta có thể phát triển theo ba hướng: Đánh lên bắc Tây Nguyên; đánh
xuống đồng bằng ven biển; đánh vào miền Đông Nam Bộ, cắt chiến trường miền Nam
ra làm đôi”.
Ý kiến
của Thượng tướng Hoàng Minh Thảo được Đại tướng Võ Nguyên Giáp hết sức ủng hộ.
Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu bằng một loạt hoạt động cài thế bao vây, chia cắt,
cô lập Buôn Ma Thuột. Quân giải phóng tăng cường hoạt động nghi binh thu hút sự
chú ý của quân lực Việt Nam cộng hòa về phía bắc (Kon Tum), đánh trận “giả” ở
Pleiku, phía Việt Nam cộng hòa mắc mưu, đưa Trung đoàn 45, đơn vị mạnh của Sư
đoàn 23 bộ binh từ Buôn Ma Thuột lên Pleiku, để sơ hở hướng Nam Tây Nguyên và
Buôn Ma Thuột. Màn nghi binh kinh điển ở Pleiku chính là yếu tố then chốt giúp
Quân giải phóng giành thắng lợi ở Buôn Ma Thuột, làm bàn đạp để giải phóng hoàn
toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Thượng tướng Hoàng Minh Thảo sau này nhận định:
“Ta ghìm địch ở Bắc Tây Nguyên để phá vỡ địch ở đầu yếu là Nam Tây Nguyên. Đó
là một thành công trong nghệ thuật dùng mưu”.
Thắng
lợi của chiến dịch Tây Nguyên đã để lại nhiều dấu ấn về nghệ thuật quân sự, đặc
biệt là nghệ thuật nghi binh lừa địch. Đây là một kinh nghiệm lịch sử vô cùng
quý giá cần được tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển trong thời kỳ xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Trong Chiến dịch Tây Nguyên, Thượng tướng
Hoàng Minh Thảo là linh hồn với tài nghệ thuật dụng binh. Nguyên lý của ông là:
“Mưu sinh ra kế, thế đẻ ra thời. Đánh bằng mưu kế, thắng bằng thời thế”.
Những
năm tháng chiến tranh chống Mỹ, Hoàng Minh Thảo là vị tướng trẻ, được “cắm chốt
nằm vùng” suốt 10 năm ở núi rừng Tây Nguyên. Ông là một vị tướng chiến lược văn
võ song toàn. Ông hiểu rõ kẻ địch, có nhiều mưu cao, kế sâu, chủ động dùng
chiến thuật nghi binh lừa địch khiến chúng kinh hồn bạt vía, hoang mang hoảng
loạn, vội vàng tháo chạy khỏi Tây Nguyên. Mỗi khi nhắc đến chiến thắng Điện
Biên Phủ người ta thường nhắc đến tên tuổi Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Còn chiến
thắng Tây Nguyên vang dội không thể không nhắc đến danh tướng Hoàng Minh Thảo -
một nhà cầm quân tài năng, nhà khoa học quân sự đầu ngành của quân đội ta. Tài
năng và đức độ của ông được ghi nhận trong lịch sử Việt Nam.
Cố
Trung tướng Phạm Hồng Cư (nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt
Nam) từng nêu rõ: Thượng tướng Hoàng Minh Thảo là người ba công lớn. Thứ nhất,
ông là một vị tướng giỏi về trận mạc, uyên thâm về lý luận quân sự, được Đại
tướng Võ Nguyên Giáp rất tin tưởng và quý trọng. Thời kỳ Cách mạng Tháng Tám
năm 1945, ông Thảo đã thay ông Nguyễn Bình làm Tư lệnh Chiến khu Ba, giải phóng
được Móng Cái, Hà Khẩu, tổ chức chống Pháp ở Hải Phòng. Ông tổ chức huấn luyện
du kích rất giỏi, sau ông được điều động về làm Tư lệnh Quân khu 4. Thứ hai,
ông làm Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên, là linh hồn trong Chiến dịch Tây Nguyên.
Thứ ba, ông là một trong những người đặt nền móng cho Học viện Quân sự Cao cấp
(nay là Học viện Quốc phòng)...
Thượng
tướng Hoàng Minh Thảo được phong Giáo sư ngành Khoa học quân sự năm 1986, Nhà
giáo Nhân dân năm 1988. Ông cũng là tác giả của nhiều tác phẩm quân sự, là Ủy
viên Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo Biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam.
Một vị tướng tài ba_ K10
Trả lờiXóaMột vị tướng văn võ song toàn_ k10
Trả lờiXóaMỗi thời kỳ lịch sử luôn gắn liền tên tuổi của các anh hùng hào kiệt. Ghi nhớ công lao to lớn của thượng tướng.k10
Trả lờiXóaMột người tướng thật bình dị gần gũi, tài năng của Thượng tướng sẽ còn mãi được các thế hệ sau này học tập và phát huy.k10
Trả lờiXóaNgười cha già của dân tộc, để mãi sáng ngời niềm tin chiến thắng. Thế hệ sau này phải có trách nhiệm gìn giữ và phát huy, cống hiến.k10
Trả lờiXóaMột vị tướng rất giỏi và tài ba của quân đội ta.k10
Trả lờiXóaRất tự hào về nhà lãnh đạo quân sự tài ba của chúng ta.k10
Trả lờiXóaRất tự hào về thượng tướng.k10
Trả lờiXóaChúng ta phải học tập và noi gương bác.k10
Trả lờiXóaNhững chiến công của người đã viết nên những trang sử hào hùng, vẻ vang của đất nước. Đất nước luôn tự hào vì bác.k10
Trả lờiXóaMột vị tướng lỗi lạc, tấm gương sáng mãi cho mọi thế hệ cán bộ, chiến sĩ QĐNDVN noi theo! K10
Trả lờiXóaVị tướng giỏi trận mạc, uyên thâm về lý luận quân sự, bậc thầy của nghệ thuật dụng binh. K10
Trả lờiXóa