Đến giữa năm 1950, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
của nhân dân ta đã giành được nhiều thắng lợi quan trọng. Tuy nhiên, trên chiến
trường chính Bắc Bộ, ta vẫn chưa nắm được quyền chủ động về chiến lược, chưa
giành được ưu thế quân sự.
Tiểu đoàn 253, Trung đoàn 174, đơn vị sơn pháo
đầu tiên tham gia Chiến dịch Biên giới Thu-Đông 1950. |
Để phá thế bao vây của địch, mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, khai thông quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa; giành quyền chủ động trên chiến trường chính, đẩy địch lún sâu hơn nữa vào thế phòng ngự bị động về chiến lược, tháng 6-1950, Thường vụ Trung ương Đảng quyết định mở Chiến dịch Biên giới.
Thực hiện quyết định của Trung ương
Đảng, trên cơ sở phân tích tình hình lực lượng và thế phòng thủ của
địch, Bộ Tổng tư lệnh đã quyết định lấy Đông Khê làm trận đánh mở màn
Chiến dịch Biên giới. Chọn Đông Khê làm trận then chốt mở màn chiến dịch là một
quyết định sáng suốt, táo bạo của ta, bởi Đông Khê là mắt xích quan trọng nối
liền với thị xã Cao Bằng và thị trấn Thất Khê. Nếu mất Đông Khê, tuyến phòng
thủ Đường số 4 sẽ bị chia cắt, thị xã Cao
Bằng trở nên cô lập, buộc địch phải đưa quân đến ứng cứu Đông Khê, hoặc đón
quân từ Cao Bằng rút về hỗ trợ. Như vậy, việc ta chọn Đông Khê, nơi
địch "tương đối yếu, nhưng lại hiểm yếu", vừa bảo đảm đánh chắc
thắng trận mở đầu, vừa tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện cách "đánh điểm,
diệt viện", kéo địch ra khỏi công sự để tiêu diệt.
Mặt trận Đông Khê có nhiệm vụ tiêu
diệt cụm cứ điểm Đông Khê và quân dù có thể nhảy xuống quanh Đông Khê. Lực
lượng gồm 2 trung đoàn độc lập (174, 209) và Trung đoàn 36 của Đại đoàn 308, 2
tiểu đoàn bộ binh (426, 11), được tăng cường 13 khẩu sơn pháo 70mm và 75mm. Mặt
trận đánh quân ứng chiến ở giữa Đông Khê-Thất Khê có nhiệm vụ đánh quân
ứng chiến bằng đường bộ từ phía Thất Khê lên, do Đại đoàn 308 (thiếu Trung
đoàn 36) đảm nhiệm. Mặt trận phối hợp Na Sầm-Lạng Sơn, lực lượng gồm 2
tiểu đoàn bộ binh (428, 888), được phối thuộc 1 đại đội công binh của bộ
đội chủ lực, cùng với dân quân du kích và 2.000 dân công làm nhiệm vụ phá hoại
đường giao thông, tiêu hao, quấy rối, phục kích, kiềm chế địch trên đường Thất
Khê-Lạng Sơn.
Ngày 16-9-1950, ta nổ súng tiến công
địch ở cụm cứ điểm Đông Khê. Quân địch dựa vào công sự, trận
địa chống cự quyết liệt, nhưng trước sức mạnh tiến công của quân ta, đến
10 giờ ngày 18-9, quân ta đã tiêu diệt toàn bộ quân địch ở cụm cứ điểm
Đông Khê, kết thúc thắng lợi trận then chốt mở màn chiến dịch. Để chiếm
lại Đông Khê và bảo đảm an toàn cho việc rút quân khỏi Cao Bằng, ngày
30-9-1950, Pháp triển khai kế hoạch Thérèse (Tê-rê-dơ), đưa binh đoàn Le Page
(Lơ Pa-giơ) từ Thất Khê lên chiếm lại Đông Khê để làm bàn đạp đón cánh quân
từ Cao Bằng rút về, đồng thời, rút binh đoàn Charton (Sác-tông) khỏi Cao Bằng
và hội quân cùng Binh đoàn Le Page ở Nậm Nàng (Nam Cao Bằng), sau đó cùng rút
về Thất Khê.
Phán đoán được ý đồ của địch, ta
tranh thủ thời gian tiêu diệt binh đoàn Le Page trước khi binh đoàn Charton về
đến nơi hội quân, đồng thời tích cực tiêu hao lực lượng của binh đoàn Charton,
tạo điều kiện để sau khi tiêu diệt binh đoàn Le Page thì sẽ chuyển sang
tiêu diệt binh đoàn Charton. Sau 7 ngày đêm chiến đấu liên tục (từ 1 đến
7-10-1950), bộ đội ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tiêu diệt 2 binh đoàn
tinh nhuệ của địch, trong đó có hai tiểu đoàn dù, bắt hàng nghìn tù binh, gồm 2
chỉ huy cao nhất và toàn bộ bộ tham mưu hai binh đoàn, giải phóng một vùng rộng
lớn ở biên giới phía Bắc, mở thông đường biên giới giữa ta và Trung Quốc, tạo
điều kiện thuận lợi cho giao lưu quốc tế.
Thắng lợi của Chiến dịch Biên giới
đã làm phá sản hàng loạt kế hoạch quân sự, chính trị của Pháp, đẩy quân Pháp
vào thế bị động phòng ngự về chiến lược, buộc phải rút lui từng bước khỏi những
khu vực đất đai rộng lớn. Đặc biệt, Chiến dịch Biên giới đã gây chấn động đối
với giới cầm quyền Pháp ở chính quốc và gây tâm lý hoang mang, lo sợ trong hàng
ngũ sĩ quan chỉ huy và binh lính Pháp về khả năng có thể bị đối phương tiến
công bất kỳ lúc nào.
Giành được thắng lợi trên là nhờ có
sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh;
đích thân Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tham gia và trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Bộ
Tổng tư lệnh đã có quyết tâm cao, chọn hướng mở chiến dịch chính xác, đánh được
vào khâu yếu của địch, buộc chúng phải dùng lực lượng cơ động để ứng cứu, tạo
điều kiện để ta tiêu diệt địch ngoài công sự. Đây cũng là lần đầu tiên, bộ đội
ta áp dụng cách "đánh điểm, diệt viện" và biết dùng thuốc
nổ để mở đường qua vật cản, tổ chức đột phá theo hình thức "tứ tổ,
nhất đội" (4 tổ, 1 đội) trong chiến đấu.
TỰ HÀO QUÂN ĐỘI CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
Trả lờiXóaViệt Nam rất kiên cường và thông minh nên đã có rất nhiều cách đánh hết sức sáng tạo dẫn đến những thắng lợi vẻ vang
Trả lờiXóaBiết địch, biết ta trăm trận trăm thắng; câu nói này luôn luôn đúng
Trả lờiXóa