Tuyên ngôn Độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo ngay giữa lòng Hà Nội, tại số nhà 48 phố Hàng Ngang của nhà tư sản yêu nước Trịnh Văn Bô. Văn kiện quan trọng này được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao đổi, lấy ý kiến đóng góp của các đồng chí trong Thường vụ Trung ương Đảng, các thành viên Chính phủ lâm thời, trong quần chúng nhân dân và ý kiến tham khảo của A. Patti - đại diện cho quân Đồng minh.
Tuyên ngôn Độc lập có 1.120 chữ, được sắp xếp trong 49 câu. Đây là một văn kiện lịch sử, văn bản pháp lý ngắn gọn, chặt chẽ, sắc bén, chứa đựng những nội dung cốt lõi, có cơ sở pháp lý vững chắc để không chỉ khẳng định chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước thế giới mà còn mở ra một thời kỳ mới của dân tộc ta, nhân dân ta trên con đường xây dựng và phát triển, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tuyên ngôn Độc lập không chỉ kết tinh các giá trị truyền thống anh hùng, bất khuất, tinh thần và ý chí đấu tranh cho một nước Việt Nam độc lập, tự do mà còn khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới; đồng thời khích lệ nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc đứng lên chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc. Vì thế, Tuyên ngôn Độc lập không chỉ gắn liền với Hồ Chí Minh mà còn mở ra thời đại Hồ Chí Minh lịch sử gắn liền với hành trình nhân dân Việt Nam kiên định con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Tuyên ngôn Độc lập cũng khẳng định rõ vai trò, sức mạnh của khối toàn dân đoàn kết trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do. Trong hành trình gian khó ấy, có Đảng lãnh đạo, với một đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, với sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, tranh thủ và phát huy sức mạnh dân tộc và thời đại, dân tộc ta đã thủ tiêu toàn bộ chế độ thực dân, phong kiến, “lấy lại tên trên bản đồ thế giới”. Vì thế, Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là một mốc son chói lọi, góp phần làm rạng rỡ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta mà còn làm cho nền văn hiến Việt Nam: “Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững/Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa/Trong và thật, sáng hai bờ suy tưởng/Sống hiên ngang mà nhân ái, chan hòa” được khẳng định và lan tỏa cùng thời đại.
Minh chứng sinh động này không chỉ thể hiện nguyên tắc “bất biến” của Người là độc lập, tự chủ, tất cả vì lợi ích của quốc gia, dân tộc, vì lợi ích của nhân dân để ứng với cái “vạn biến” luôn thay đổi, khó lường mà còn thể hiện tư duy đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Điều này cũng cho thấy, nhất quán và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh là để được “bình đẳng” và có “quyền bình đẳng” trong quan hệ quốc tế, thì phải xây dựng thực lực đất nước vững mạnh toàn diện về chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao, quốc phòng, an ninh... Đồng thời, phải chủ động, sáng suốt, tỉnh táo để có đối sách phù hợp trước bất kỳ một thế lực ngoại xâm nào; nhất là khi chủ quyền quốc gia bị đe dọa, bị xâm phạm thì cần phải tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế gắn với kiên trì, kiên định, quyết liệt nhưng không cứng nhắc và máy móc; mềm mỏng nhưng không nhân nhượng và nhu nhược trong quyết sách và hành động.
Từ việc khẳng định các giá trị của một dân tộc là quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền sung sướng và quyền tự do trong Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền con người chỉ thực sự được bảo đảm khi gắn liền với quyền độc lập, tự do của dân tộc. Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh về quyền con người, lời căn dặn "đầu tiên là công việc đối với con người", chăm lo cho con người trong bản Di chúc lịch sử, trong gần 90 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã kiên trì đấu tranh bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,v.v.. kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi để lại cho nhân dân Việt Nam "Quốc bảo"; đó là bản Di chúc của người; mỗi công dân Việt Nam phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người.
Trả lờiXóaBạn nói rất chuẩn xác, tôi cũng nghĩ như vậy
Xóa