Thứ Sáu, 8 tháng 11, 2019

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VÀ CHIÊN TRANH NHÂN DÂN


Nghệ thuật quân sự trong khởi nghĩa vũ trang và chiến tranh nhân dân của Hồ Chí Minh có thể nói một cách bao quát là: Nghệ thuật “Toàn dân đánh giặc”, “lấy nhỏ thắng lớn”, “lấy ít địch nhiều”.


Phát huy sức mạnh tổng hợp, đặc biệt là sức mạnh chính trị, tinh thần, lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc thành sức mạnh vật chất: Đánh địch bằng mọi lực lượng, mọi thứ vũ khí, mọi cách đánh với mọi quy mô nhỏ - vừa - lớn; đánh bằng chính trị, quân sự, kết hợp tiến công chính trị với tiến công quân sự và binh vận; đánh địch trên cả ba vùng chiến lược; tiêu diệt, tiêu hao địch gắn với đánh bại ý chí xâm lược của địch, bảo đảm ta càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng.
Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà non trẻ ra đời chưa được bao lâu thì Thực dân Pháp quay trở lại gây hấn thực hiện dã tâm cướp nước ta một lần nữa. Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp núp bóng quân Anh vào giải giáp quân Nhật đầu hàng, đã nổ súng đánh ta ở Nam Bộ. Ở miền bắc quân tầu Tưởng kéo vào núp theo sau chúng là bè lũ phản động thù địch với cách mạng. Trước tình thế hết sức khó khăn được ví như “Ngàn cân treo trên sợi tóc”, Bác Hồ cùng TW đảng đã có những quyết sách sáng suốt khôn khéo để vừa chống thù trong và giặc ngoài, lãnh đạo nhân dân kháng chiến trường kỳ thắng lợi.
Một mặt Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ đứng lên kháng chiến, mặt khác ra sức đàm phán với Chính phủ Pháp để cứu vãn hòa bình. Người ký với đại diện Chính phủ Pháp tại Hà Nội Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946. Tiếp đó, Người qua Pháp chỉ đạo phái đoàn Chính phủ ta đàm phán với Chính phủ Pháp ở Phôngtenblô. Cuộc đàm phán thất bại do lập trường phía Pháp vẫn theo đuổi chính sách thống trị Việt Nam. Tuy nhiên Hồ Chí Minh cũng đã ký với Chính phủ Pháp tạm ước 14-9-1946 để có thời gian chuẩn bị kháng chiến.
Thỏa thuận ngừng bắn trong Tạm ước 14-9 không được thực hiện ở Nam bộ. Tại Bắc Bộ, quân Pháp đánh chiếm Hải Phòng ngày 23-11-1946. Tại Hà Nội, những hành động khiêu khích của quân Pháp ngày càng trắng trợn. Dã tâm gây hấn của Pháp ở Thủ đô bộc lộ rõ rệt khi quân đội Pháp gửi tối hậu thư buộc ta phải hạ vũ khí.
Trước tình hình đó, ngày 18, 19 tháng 12 năm 1946 tại làng Vạn Phúc (Hà Đông), Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trì, quyết định phát động cuộc kháng chiến trên phạm vi toàn quốc.
Từ ngày 3 đến 19 tháng 12, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về làng Vạn Phúc (Hà Đông) sống trong nhà ông Nguyễn Văn Dương, tại đây ngày 19 tháng 12, trên căn gác xép, Người viết Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” cùng với những tư liệu khác như chỉ thị Toàn dân kháng chiến, Kháng chiến nhất định thắng lợi đã nêu bật những vấn đề căn bản nhất về đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp. Cuộc kháng chiến của nhân dân ta đang tiến hành chống thực dân Pháp xâm lược là sự tiếp nối con đường Cách mạng tháng Tám để bảo vệ độc lập và thống nhất dân tộc; là cuộc chiến tranh nhân dân, toàn diện. Sức mạnh của nó là tổng hợp sức mạnh của toàn dân, chiến đấu chống kẻ thù trên các mặt trận quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Trường kỳ kháng chiến là một phương châm chiến lược quân sự bảo đảm kháng chiến thắng lợi. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là Hịch cứu nước của Tổ quốc, là một áng hùng văn sáng chói những nét đặc sắc của tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.
Tháng 3 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng chuyển lên Việt Bắc xây dựng căn cứ địa lãnh đạo cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp. Thực hiện đường lối kháng chiến đúng đắn, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo của TƯ Đảng và Hồ Chủ Tịch, chúng ta đã liên tiếp dành chiến thắng qua các chiến dịch thu đông 1947, chiến dịch biên giới 1950, chiến dịch Hoà Bình 1951-1952, chiến cuộc Đông Xuân 1953-1954 và kết thúc bằng chiến dịch Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu.
Từ thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã khẳng định, Hồ Chí Minh đã đưa nghệ thuật quân sự trong chiến tranh nhân dân Việt Nam tiến lên một đỉnh cao mới, một chất lượng mới, tạo ra một sức mạnh mới.
Nghệ thuật ấy thể hiện trước hết là tư tưởng chiến lược tiến công, luôn giành thế chủ động. Có tư tưởng tiến công mới có hành động tiến công. Có chủ động mới phát triển được thế tiến công. “Kiên quyết không ngừng thế tiến công”, luôn luôn giữ quyền chủ động là biểu hiện cao nhất của tiến công. Mặt khác, đối với Hồ Chí Minh thì chiến lược tiến công không loại trừ cách đánh phòng ngự. Khi cần thiết có thể phòng ngự. “Nhưng lối phòng ngự này là lối phòng ngự thế công chứ không phải rút vào một chỗ để cho quân thù tha hồ đánh phá”.
Nghệ thuật quân sự tạo lực, lập thế, tranh thời, dùng mưu. Người dạy: đánh địch bằng mưu, thắng địch bằng thế, luôn luôn đánh địch trên thế mạnh “lạc nước hai xe đành bỏ phí, gặp thời, một tốt cũng thành công”.
Muốn vận dụng lực, thời cho có kêt quả, Người nhấn mạnh phải dùng mưu: phải quyết đoán, phải dũng cảm, khi tiến đánh thì phải thật nhanh. Nếu trù trừ, do dự sẽ mất cơ hội tốt. Nhưng cần phải vừa nhanh vừa có cơ mưu mới quyết định được thắng lợi.
Với tinh thần trên, Người dạy: “Dĩ nhu xử cương”, lấy mềm thắng cứng. Người phân tích: “Hai hòn đá cùng chọi nhau thì hai hòn cùng vỡ, hai cái trứng cùng chọi nhau thì hai cái cùng vỡ. Phải một cái cứng một cái mềm thì khi chọi nhau một cái mới còn... Pháp có xe tăng, đại bác thì ta phá đường. Pháp có máy bay thì ta đào hầm. Pháp muốn đánh chớp nhoáng thì ta kéo dài. Nhất định ta thắng”.
Người đặc biệt nhấn mạnh nghệ thuật lừa địch, đánh địch bất ngờ “về việc quân, không thể đường đường chính chính được mà bao giờ cũng phải áp dụng chiến thuật lừa dối..., muốn thắng quân địch phải bầy mưu kế làm sao lừa được quân địch vào cạm bẫy, nên không thể không dùng chiến thuật giả dối được”. Người coi “nhân hòa, địa lợi, thiên thời” là những nhân tố quyết định thắng lợi  trong chiến tranh, trong đó nhân hòa là quan trọng bậc nhất. Có nhân hòa mới có lực lượng, mới tạo được thế trận, mới tạo ra và nắm được thời cơ giành thắng lợi. Sự chỉ đạo, chỉ huy khéo léo đã tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn, chiến thắng mọi kẻ thù ở mọi nơi mọi lúc.
Trong chiến tranh toàn dân, toàn diện phải đánh địch bằng mọi cách. Tác chiến du kích không những có vị trí chiến lược trong khởi nghĩa vũ trang mà cả trong chiến tranh cách mạng. Đánh địch bằng mọi qui mô: “từng người đánh, từng đơn vị đánh”; “đánh to, đánh nhỏ, khi tập trung khi phân tán”. Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, quân đội ta đã sáng tạo ra nhiều phương thức tác chiến mới để giành thắng lợi trước quân thù.
Xuất phát từ truyền thống “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo” Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở đảng viên, cán bộ và chiến sĩ coi trọng công tác địch vận.
Từ chủ nghĩa nhân đạo, yêu chuộng hòa bình, yêu thương con người, Hồ Chí Minh chủ trương chỉ tiến hành chiến tranh khi không còn con đường nào khác để giành và giữ độc lập dân tộc, kết thúc chiến tranh một cách có lợi nhất. Đẩy mạnh đấu tranh trên mặt trận quân sự, giành những bước thắng lợi quan trọng thay đổi cục diện chiến trường, buộc địch phải tiến hành đàm phán thương lượng giải quyết kết thúc chiến tranh trên bàn hội nghị để tránh hao tổn xương máu cho cả hai bên.

2 nhận xét:

  1. Chúng ta đã chiến thắng tất cả giặc ngoại xâm là vì có sự lãnh đạo tài tình của Đảng; biết phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân

    Trả lờiXóa