Chiến thắng Điện Biên Phủ đi vào
lịch sử của dân tộc Việt Nam như một Bạch Đằng, một Chi Lăng, hay một Đống Đa
trong thế kỷ 20, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công chói lọi đột phá
thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa kiểu cũ của chủ nghĩa đế quốc.
Theo đánh giá của tướng H.Navarre và các nhà quân sự
Pháp-Mỹ thì “Điện Biên Phủ là một vị trí chiến lược quan trọng đối với chiến
trường Đông Dương và cả miền Đông Nam Á, nằm trên trục giao thông nối liền các
miền biên giới của Lào, Thái Lan, Miến Điện (Myanmar) và Trung Quốc. Từ Điện
Biên Phủ, quân Pháp có thể bảo vệ được Lào, rồi từ đó đánh chiếm lại các vùng
đã mất ở Tây Bắc trong những năm 1952-1953 và tạo điều kiện thuận lợi để tiêu
diệt các sư đoàn chủ lực của Việt Nam”.
Đánh giá Điện Biên Phủ là một vị trí chiến lược quan trọng bậc nhất ở Đông Dương, nên sau khi đánh chiếm Điện Biên Phủ vào ngày 20/11/1953, quân Pháp không ngừng tăng thêm binh lực, vũ khí, trang thiết bị quân sự, xây thêm nhiều công sự, đồn lũy và các loại vật tư khác. Được sự giúp đỡ của Mỹ về cố vấn, trang bị kỹ thuật, kinh tế, Pháp đã xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất Đông Dương.
Tính đến tháng 3/1954, tại Điện Biên
Phủ đã có 12 tiểu đoàn và bảy đại đội bộ binh, ba tiểu đoàn pháo binh, một đại
đội xe tăng, một phi đội máy bay thường trực (14 chiếc). Sau này trong quá
trình chiến dịch, quân Pháp tăng viện thêm bốn tiểu đoàn, hai đại đội lính dù,
tổng cộng có 17 tiểu đoàn, phần lớn đều là lính tinh nhuệ. Ngoài ra còn có các
quân chủng pháo binh, công binh, thiết giáp, phân đội hỏa pháo. Tổng số quân
tăng lên hơn 16.000 người và 300 máy bay vận tải tiếp tế, có sự chi viện của
không quân Mỹ.
Ngày 6/12/1953,
Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ với bí danh Trần Đình, nhất
trí thông qua phương án tác chiến của Tổng Quân ủy. Đại tướng Võ Nguyên Giáp
làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy, đồng chí Hoàng Văn Thái - Tham mưu trưởng, Lê
Liêm - Chủ nhiệm Chính trị, Đặng Kim Giang - Chủ nhiệm Cung cấp.
Với những nỗ lực cao nhất, Việt Nam
đã dồn hết sức người, sức của cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhiều tầng lớp nhân
dân hăng hái lên đường tham gia chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ như công nhân,
nông dân, trí thức, văn nghệ sỹ… Và đã có biết bao tấm gương hy sinh trên đường
ra trận, nhiều anh hùng quên mình xả thân cho cuộc kháng chiến.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ,
đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã khẳng định đường lối kháng
chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là đường lối kháng
chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ tự lực cánh sinh, đã phát huy cao độ
truyền thống yêu nước, ý chí chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
Đầu tháng 3/1954, thời gian chuẩn bị
mọi mặt cho cuộc tiến công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ với phương châm
“đánh chắc, tiến chắc” đã hoàn thành. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ có tất cả
49 cứ điểm, được chia làm ba phân khu. Trên chiến trường, ta mở ba đợt tiến
công vào Điện Biên Phủ.
Đợt một của chiến dịch Điện Biên Phủ
mở màn ngày 13/3/1954, với trận tiêu diệt cụm cứ điểm Him Lam thuộc vòng ngoài
Phân khu Bắc của tập đoàn cứ điểm. Đợt hai diễn ra ngày 30/3/1954, đánh vào
phân khu trung tâm. Đợt ba chiến dịch diễn ra ngày 1/5 và kết thúc ngày
7/5/1954, đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và tổng công kích tiêu diệt toàn bộ
tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
Sau 56 ngày đêm chiến đấu, hy sinh,
gian khổ, quân và dân Việt Nam đã tiêu diệt toàn bộ Tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã nâng
cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, buộc thực dân Pháp phải ngồi vào
bàn Hội nghị cùng ký Hiệp định Geneva chấm dứt cuộc chiến tranh xâm lược
(1945-1954) ở Đông Dương, miền Bắc Việt Nam được hoàn toàn giải phóng. Hiệp
định Geneva đã tạo được cục diện mới, tạo tiền đề và cơ sở pháp lý rất quan
trọng để dân tộc Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954-1975).
20/11/1953, Pháp
cho quân nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, manh nha ý định xây dựng căn cứ quân sự ở
đây và ngăn chặn quân chủ lực Việt Nam chiếm đóng Tây Bắc.
03/12/1953, Navarre chính thức quyết định
xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ sau khi nghiên cứu, xem xét và cân nhắc
những điều kiện thuận lợi tại thung lũng lòng chảo phía Tây Bắc Việt Nam. Quyết
định này đưa tới sự ra đời của tập đoàn cứ điểm “chưa từng thấy” ở Đông Dương
với 49 cứ điểm mạnh mẽ, được đầu tư viện trợ tối đa và binh lực và hỏa lực và
sự dẫn dắt, chỉ huy của Đại tá De Castries.
06/12/1953, Bộ Chính
trị quyết định chọn Điện Biên Phủ làm điểm quyết chiến chiến lược trong Đông -
Xuân 1953 - 1954 của ta với Thực dân Pháp, đồng thời cử Đại tướng Võ Nguyên
Giáp làm Bí thư kiêm Tổng tư lệnh mặt trận.
26/01/1954, Tổng tư lệnh mặt trận, Đại
tướng Võ Nguyên Giáp quyết định chuyển phương châm tác chiến từ “Đánh nhanh,
thắng nhanh” sang “Đánh chắc, tiến chắc”.
31/01/1954, Sở chỉ huy chiến dịch Điện
Biên Phủ chuyển vị trí đóng quân đến khu rừng Mường Phăng trên đại điểm xã
Mường Phăng, huyện Điện Biên cách Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ khoảng 40km
đường bộ và khoảng hơn 15km đường chim bay.
13/3/1954, Sau khi chuẩn
bị kỹ lưỡng về mọi mặt, ta chính thức mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ tại Trung
tâm đề kháng Him Lam, một trong những cụm cứ điểm mạnh nhất của Pháp nằm phía
Đông Bắc Tập đoàn cứ điểm.
31/3/1954, Đợt tấn công thứ hai vào Tập đoàn
cứ điểm Điện Biên Phủ, nhiệm vụ tập trung vào dãy cao điểm phía Đông, khu sân
bay Mường Thanh, thừa cơ tiến vào khu trung tâm, nơi có Sở chỉ huy của De
Castries.
01/5/1954, Đợt tấn công cuối cùng nhằm
kết thúc số phận của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được tiến hành. Nhiệm vụ
quan trọng nhất là tiêu diệt nốt A1 và C2, thừa cơ tiến hành tổng công kích.
06/5/1954, vào lúc 20 giờ 30 phút, khối
bộc phá 960kg nổ trên Đồi A1 báo hiệu ngày tàn của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên
Phủ.
07/5/1954, sau khi mở được chiếc chìa
khóa cuối cùng A1, quân ta từ các hướng tiến thẳng vào hầm chỉ huy của De
Castries. Không có sự kháng cự, De Castries cùng Bộ chỉ huy quân Pháp và sau đó
là toàn bộ quân đồn trú từ các hầm trú ẩn và các cứ điểm ra hàng.
21/7/1954, Hiệp định Gionever được ký
kết, Pháp và các nước tham gia công nhận độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh
thổ ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia, rút quân khỏi Đông Dương.
Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954 không những là mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam mà còn cổ vũ phong trào chống chủ nghĩa thực dân, giải phóng dân tộc trên thế giới
Trả lờiXóaBạn nói rất hay, tôi cũng đồng quan điểm
Xóa